Trần Mỹ Duyệt
Thánh Augustine (354-430) cũng được gọi là Thánh Augustine thành Hippo, một giám mục, học giả, Tiến Sỹ Giáo Hội, thần học gia và triết gia với tầm ảnh hưởng rộng lớn trong thời các Tín Hữu tiên khởi. Hai trong trong các tác phẩm nổi tiếng của ngài là Tự Thú (Confession) và Thành Đô Thiên Chúa (The City of God).
“Augustine” hay “Augustinus” sinh ngày 13 tháng Mười Một năm 354 Tại Thagste, Numidia Cirtensis, Đế Quốc Roma. Qua đời ngày 28 tháng Tám năm 430 tại Hippo Regius, Numidia Cirtensis, phía Đông Đế Quốc Roman. Hưởng thọ 75 tuổi. Ngài được cộng đoàn tôn phong hiển thánh (Pre-Congregation). Lễ kính: 28 tháng Tám (Công Giáo Tây Phương), 15 tháng Sáu (Công Giáo Đông Phương), 4 tháng Mười Một (Assyrian).
Augustine được biết đến như vị thánh của Giáo Hội Công Giáo, Giáo Hội Chính Thống Đông Phương, nhiều giáo phái Lutheran, và Cộng Đồng Anh Giáo. Ngài là bổn mạng của những nhà sản xuất rượu, bia, những người làm nhà in, những nhà thần học, và một số các thành phố và giáo phận. Tư tưởng của ngài ảnh hưởng rộng rãi trên toàn thế giới. Nhiều người Tin Lành, đặc biệt theo giáo phái Calvin và Luther đề cao những giáo thuyết của ngài về ơn cứu độ và ơn thánh sủng. Những người Tin Lành Cải Cách, và Martin Luther coi ngài trong số các Giáo Phụ tiên khởi cao cả.
Tuổi thơ và giáo dục:
Augustine sinh năm 354 tại một thành của Thagaste, ngày nay là Souk Ahras, Algeria thuộc một tỉnh của Roman ở Numidia. Thân mẫu ngài là Monica, có nguồn gốc Berber thuộc tầng lớp ưu tú, thượng lưu nói tiếng Latin. Bà là một Kitô hữu ngoan đạo. Thân phụ ngài là một người dân ngoại, nhưng đã trở lại Công Giáo trước khi qua đời. Ngài có em trai là Navigius, và em gái là Perpetua. Các học giả đồng ý rằng Augustine và gia đình thuộc bộ tộc Berbers di cư tới Bắc Phi Châu. Trong những tác phẩm của mình, Augustine đã có nói về nguồn gốc quá khứ như một người Roma gốc Phi Châu.
Năm 11 tuổi, Augustine được gửi tới trường ở Madaurus nay là M’Daourouch, một thành phố nhỏ thuộc Numidian khoảng 31 Km về phía nam Thagaste. Ở đây Augustine trở thành quen thuộc với văn chương Latin, với những niềm tin và thực hành ngoại đạo. Nhận định đầu tiên của ngài về tội là khi ngài và một số bạn rủ nhau đi ăn cắp lê từ vườn một nhà hàng xóm. Ngài đã viết về điều này trong cuốn Tự Thú. Ngài nhận ra rằng những trái lê trở thành cám dỗ không phải vì màu sắc hoặc mùi vị của nó, và ngài cũng không đói hoặc nghèo, vì ngài có đủ trái cây còn “ngon hơn.
Lên 17 tuổi, Augustine đến Carthage theo khoa tu từ học (rhetoric), mặc dù đòi hỏi quá khả năng tài chánh của gia đình. Để ngoài những lời nhắn nhủ của mẹ, thanh niên Augustine sống cuộc sống sa đọa, theo những thanh thiếu niên ham mê dục vọng. Trong thời gian học tại đây, ngài đọc Cicero’s dialogue Hortensius. Nó làm cho ngài thích thú môn triết học. Mặc dù được nuôi dưỡng như người Công Giáo, nhưng Augustine lại trở thành môn đồ theo Thuyết Nhị Nguyên (Manichaeism), điều làm mẹ ngài vô cùng thất vọng.
Dù mới chỉ 17 tuổi, Augustine bắt đầu có mối liên hệ với một thiếu nữ tại Carthage, nhưng mẹ ngài muốn ngài kết hôn với người cùng giai cấp, người thiếu nữ tiếp tục là người yêu của ngài. Tuy đã được mẹ cảnh cáo tránh xa dục vọng ngoài hôn nhân, nhưng Augustine vẫn giữ mối quan hệ này trên 15 năm. Người này đã sinh cho ngài một con trai và ngài đặt tên là Adeodatus (372-388), có nghĩa là Ân Huệ Từ Thiên Chúa (Gift from God). Đứa trẻ được cho là rất mực thông minh. Năm 385, Augustine chấm dứt mối tình này để chuẩn bị kết hôn với một thiếu nữ thừa kế. Trong thời gian chuẩn bị kết hôn thì ngài được ơn trở lại, quyết tâm trở thành linh mục, và vì thế hôn nhân này không thành.
Từ Carthage đến Rome và Milan:
Augustine từ ban đầu là một sinh viên rất thông minh, nhưng được cho là không thông thạo môn Hy ngữ. Mặc dù sau này ngài có khả năng về Hy Lạp nhưng không bằng Latin.
Augustine đã dạy văn phạm tại Thagaste từ 373 và 374. Năm kế tiếp ngài tới Carthage học tu từ học và ở đó trong 9 năm. Khó chịu bởi những học sinh vô kỷ luật ở Carthage, ngài chuyển đến mở trường tại Rome, và trở thành một nhà hùng biện tài năng, sáng giá nhất vào năm 383. Một trong các bạn thuộc Giáo Phái Nhị Nguyên đã giới thiệu ngài với thủ lãnh thành Rome là Symmachus, người đã được tòa án hoàng tộc ở Milan giao cho nhiệm vụ để tìm một giáo sư tu từ học. Augustine đã được nhận vào vai trò này tại Milan cuối năm 384. Ba mươi tuổi, ngài đã trở nên một giáo sư nổi tiếng ở thế giới Roma lúc bấy giờ trong khi vị trí này chỉ được trao cho những người nắm giữ các vai trò chính trị.
Mặc dù ở trong Giáo Phái Nhị Nguyên, nhưng Augustine không bao giờ được “chọn” để thăng tiến. Có lẽ vì khi còn ở Carthage, ngài đã có cuộc gặp gỡ không mấy tốt đẹp với một giám mục Nhị Nguyên Giáo là Faustus tại Mileve. Ở Rome, ngài đã ra khỏi Giáo Phái.
Trong khi ở Milan, mẹ và bạn ngài là Thánh Simplicianus đã khuyên ngài trở lại Công Giáo. Augustine đã đến Milan và thăm Giám Mục Ambrose, vì nghe đến tiếng tăm của ngài. Sau này cả hai đều trở thành những bậc thày hùng biện. Tình cảm giữa hai người từ từ lớn mạnh và trở nên thân thiết. Augustine bị ảnh hưởng rất nhiều bởi Ambrose, hơn cả mẹ và các bạn hữu ngài. Trong Tự Thú, ngài viết, “Người của Thiên Chúa đã tiếp nhận tôi như một người cha, và đã đón tôi như một vị giám mục.” Giám Mục Ambrose đã nhận Augustine như người con tinh thần.
Trở lại và con đường làm linh mục:
Cuối tháng Tám năm 386, ở tuổi 31, Augustine đã trở lại Công Giáo. Như Augustine đã kể lại sau này là sự trở lại của ngài được thúc đẩy bởi nghe thấy tiếng nói của một em bé “hãy cầm lấy mà đọc” (tolle, lege). Ngài đã mở cuốn sách về những thư viết của Thánh Phaolô (Confession, 8.12.29), tình cờ đọc thấy trong những dòng này: “Như giữa ban ngày, ta hãy sống đoan trang, chứ không phải trong chè chén và say sưa, trong dâm dật và phóng đãng, trong kình địch và ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô và đừng lo toan về xác thịt, cho thỏa các đam mê.” (Roma 13:13-14)
Giám Mục Ambrose rửa tội cho Augustine và con trai của ngài là Adeodatus tại Milan vào dịp Vọng Phục Sinh, 24-25 tháng Tư năm 387. Sau đó mẹ ngài, Adeodatus và ngài trở về Phi Châu. Thân mẫu ngài, Thánh Monica đã qua đời tại Ostia, Italy, khi họ cùng nhau chuẩn bị cho cuộc hành trình hồi hương Phi Châu. Khi về đến Phi Châu, Augustine bắt đầu một đời sống của một người tự do trong phần đất của gia đình. Sau đó ít lâu, Adeodatus qua đời. Augustine bán phần thừa kế của mình và lấy tiền cho người nghèo. Ngài chỉ giữ lại căn nhà, nơi mà ngài biến thành một đan viện cho chính mình và một số các bạn hữu. Ngoài tài hùng biện, ngài còn trổi vượt về khả năng giảng dậy.
Sau khi trở lại Công Giáo và chịu phép Rửa Tội, Augustine đã phát triển quan niệm riêng về triết và thần học, áp dụng nhiều nguyên tắc và nhận thức khác nhau. Tin rằng ân sủng của Đức Kitô cần thiết đối với sự tự do của con người, ngài đã thiết lập giáo lý về tội nguyên tổ và đóng góp những giá trị để thiết lập nguyên tắc cuộc chiến công lý. Augustine đã hình dung Giáo Hội giống như một Thành Trì Của Thiên Chúa về mặt tinh thần, khác với một Thành Trì Trần Thế bằng vật chất. Giáo huấn của Giáo Hội bắt đầu từ ý tưởng về Chúa Ba Ngôi như được định nghĩa bởi Công Đồng Nicaea và Công Đồng Constantinope rất gần gũi với nhận định về Chúa Ba Ngôi của Augustine.
Năm 392, Augustine được phong chức linh mục tại Hippo Regius nay là Annaba ở Algeria. Ngài vui mừng khám phá ra giá trị của thời gian huấn luyện tu từ học ở các trường bên Ý. Những kiến thức này giúp ngài đạt được những kết quả trong việc giảng dậy. Ngài trở thành một nhà giảng thuyết nổi tiếng (hơn 350 những bài giảng giá trị) được cho là để phản biện Nhị Nguyên Giáo mà trước đây ngài đã đi theo. Ngài đã giảng thuyết khoảng 6.000 tới 10.000 bài giảng. Tuy nhiên, ngày nay chỉ còn lưu giữ được khoảng 500 bài. Thêm vào đó, ngài còn dùng những câu hỏi và những hình thức thi ca khi nói về những khác biệt giữa đời sống con người trên trái đất và trên thiên đàng.
Năm 395, ngày được chọn làm giám mục phó với quyền kế vị (coadjutor Bishop) của Hippo, và trở nên giám mục chính tòa sau đó. Và ngài đã dâng cúng phần tài sản của mình cho giáo hội Thagaste. Ngài làm giám mục cho đến năm 430.
Khi trở thành giám mục, ngài chú tâm vào việc phục vụ mọi người trong cộng đồng dân Chúa. Ngài làm việc không mệt mỏi để hoán chuyển giáo dân Hippo trở về với giáo lý Công Giáo. Mặc dù ngài đã rời đan viện của ngài, ngài vẫn tiếp tục hướng dẫn đời sống đan tu ngay trong tòa giám mục.
Những gì về cuối đời ngài được ghi lại bởi người bạn của ngài, Giám Mục Possidius là giám mục Calama nay là Guelma, Algeria. Về cuối đời, việc hướng dẫn một cộng đoàn Kitô hữu lớn chống lại những quan điểm chính trị và tôn giáo đã có một ảnh hưởng lớn qua những bài viết của ngài. Giám Mục Possidius ngưỡng mộ Giám Mục Augustine như một người khôn ngoan và có tài hùng biện. Giám Mục Possidius cũng diễn tả về cuộc sống cá nhân của Giám Mục Augustine như ăn uống đạm bạc, làm việc không mệt mỏi, ghét bỏ thói nói hành, xa tránh mọi cám dỗ xác thịt, và thực hành khôn ngoan những tài sản thiêng liêng mà ngài được trao phó. Ngài vẫn thường nói với giáo dân: “Đối với anh em tôi là giám mục, nhưng giữa anh em tôi là một Kitô hữu.”
Qua đời và tuyên thánh:
Augustine qua đời ngày 28 tháng Tám năm 430. Liền sau khi qua đời, theo Giám Mục Possidius, một trong số phép lạ đã được thực hiện theo lời chuyển cầu của Augustine là chữa một người bệnh khi bị động kinh. Sau khi ngài qua đời, người Vandals đã rỡ bỏ lệnh cai trị Hippo, nhưng chẳng bao lâu lại thiêu rụi thành phố, phá hủy tất cả nhưng nhà thờ chính tòa và thư viện lại còn nguyên vẹn không hề hấn gì.
Augustine được tuyên thánh bởi sự công nhận của cộng đồng, và sau này được ban tặng danh hiệu Tiến Sỹ Giáo Hội năm 1298 bởi Đức Giáo Hoàng Boniface VIII.
Xác của Thánh Augustine sau khi được cải táng được chuyển tới Cagliari, Sardinia. Khoảng năm 720 di hài ngài lại di chuyển một lần nữa tới thánh đường San Pietro in Ciel d’Oro ở Pavia.
Tháng Mười 1695, một nhóm thợ làm trong thánh đường đã tìm thấy một hộp bằng cẩm thạch chứa đựng những xương người bao gồm một phần xương sọ. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XIII (1724–1730) đã chỉ thị cho Giám Mục Pavia, là Đức Cha Pertusati khảo nghiệm. Đức Giám Mục sau đó đã tuyên bố rằng theo ý kiến của ngài, thì đó là những xương của Thánh Augustine.
Năm 1842 một phần xương cánh tay phải của ngài lưu giữ tại Pavia đã được đem về kính giữ tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Augustine ở Annaba, Algeria.
Di sản:
Là một giáo sư, học giả lỗi lạc, kho tàng tinh thần của ngài để lại rất bao la gồm nhiều đề tài về thần học trong đó gồm các chủ đề như Tạo dựng, Giáo Hội, Cánh Chung (Eschatology), Thánh Mẫu (Mariology), Nhận Biết Tự Nhiên và diễn dịch Kinh Thánh (Natural knowledge and biblical interpretation), Nguyên Tội (Original sin), Tiền Định (Predestination), Thần Học Bí Tích (Sacramental theology).
Ngài còn viết và để lại những tư tưởng về triết học như Chiêm Tinh Học (Astrology), Epistemology, Đạo Đức Chiến Tranh (Just war), Ý Chí Tự Do (Free will), Xã Hội Học (Sociology), Luân Lý và Đạo Đức (morals and ethics), Luật Tự Nhiên (Natural law), Nô Lệ (Slavery), Tình Dục và Phái Tính (Sexuality and the sexes), Sư Phạm (Pedagogy), và Sửa Phạt (Coercion).
Thánh Augustine chính là một “Rừng Gỗ Quý” của Giáo Hội. Điều này được bao gồm trong câu nói: “Nếu những tư tưởng và phát biểu nào về luân lý, đạo đức và tôn giáo mà chưa biết ai là tác giả, thì đó có thể cho là của Thánh Augustine.” Ngài còn được biết đến như vị Tiến Sỹ Ân Sủng “Doctor of Grace” vì ngài đã viết và diễn giải rất nhiều về ơn thánh sủng, đặc biệt trong những phản biện của ngài với chủ thuyết Pelagianism. Giáo lý của ngài về ân sủng, ơn cứu độ và bản tính của Giáo Hội đã ảnh hưởng một cách sâu đậm tư tưởng Kitô giáo qua hàng thế kỷ. Nó vẫn còn tiếp tục được nghiên cứu bởi các học giả Công Giáo cũng như Tin Lành.
_______
Tài liệu trích dịch từ
Wikipedia, the free encyclopedia
Bước vào đời sống hôn nhân, ai cũng mong được hạnh phúc. Ngược lại, nếu hôn nhân không như ý mình muốn thì đây chính là một bất hạnh mà không ai muốn nó xảy ra. Nhưng nếu chồng bạn, con bạn trở thành những gánh nặng khiến bạn trở nên tuyệt vọng thì cũng đừng thất vọng, vì bạn đang giống một người. Người này đã bước vào hôn nhân khi còn rất trẻ với một người chồng đã gây ra nhiều nỗi thất vọng.
Hồi còn nhỏ, mỗi lần lười không muốn đi nhà thờ hoặc bị cám dỗ bỏ lễ tôi lại nghĩ tới lời mẹ dậy: “Phải siêng năng đọc kinh, cầu nguyện, đi nhà thờ, đi lễ để ngày sau được lên thiên đàng”. Nhưng lại không dám hỏi mẹ: “Thiên đàng là gì? Nó ở đâu?” Và nếu như có hỏi thì cũng được nghe một câu trả lời, đại khái:
Vào một buổi chiều cách đây khoảng 15 năm, Đức Cha Chu Văn Minh cùng với cha phụ tá Brunô Phạm Bá Quế thuộc Đại Chủng Viện Thánh Giuse Hà Nội đã đến thăm gia đình chúng tôi. Những câu chuyện tình yêu sét đánh tưởng chỉ có trong tiểu thuyết tình,
Có ít nhất ba cách chính để đối thoại hay nói chuyện với nhau: bằng ngôn ngữ, bằng cử chỉ, và bằng chữ viết. Đối thoại hay nói bằng ngôn ngữ được chuyển đạt bằng lời, bằng biểu hiện cơ thể, và bằng viết thành chữ điều muốn nói. Nhưng nguyên nhân gây đổ vỡ trong hôn nhân lại chính là vợ chồng không nói, không hiểu nhau và không trao đổi được với nhau. Thay vì nói cho nhau nghe, lắng nghe để hiểu nhau, họ chỉ to tiếng cãi vã rồi dẫn đến bất hòa. Theo kiểu nói bình dân gọi đây là “khắc khẩu!”
Nhiều anh chị em thất tình, chán đời thường thích ngâm nga bài hát hoặc những lời ca trên của phần mở đầu bài hát “Không 1” của Nguyễn Ánh 9. Lý do mà anh không còn yêu em nữa hoặc em không còn yêu anh nữa thì có rất nhiều, và tùy vào mỗi người, mỗi hoàn cảnh.
“Linh mục nên hay không nên có vợ? Phụ nữ nên được phong chức linh mục?” Đây là những đề tài từng đã gây nhiều tranh cãi trong nhưng thập niên gần đây. Đa số không đồng tình; ngược lại, cũng có một số đồng tình trong đó có cả các giáo phẩm, linh mục và tu sỹ.
Mỗi lần tôi nhận được câu hỏi, đại khái: “Làm cách nào để tôi có thể nói chuyện được với đứa con gái ở tuổi dậy thì?” Hoặc những câu hỏi tương tự, tư tưởng đầu tiên xuất hiện trong trí tôi là những phụ huynh này đã không biết nói chuyện với con cái như thế nào khi chúng còn bé,
Thánh Thể cũng được biết như Bánh Nuôi Linh Hồn, hoặc Bữa Tiệc Ly là BÍ TÍCH TÂM ĐIỂM của Kytô Giáo. Nó được Chúa Giêsu thiết lập trong Bữa Tiệc Khi khi Ngài phân chia bánh và rượu với các môn đệ, xác nhận đó là mình và máu của Ngài.
Một Thiên Chúa mà có ba ngôi. Ba ngôi là một Thiên Chúa. Đây là một trong những mầu nhiệm sâu thẳm, cao siêu nhất vượt trên mọi sự hiểu biết của đức tin Kitô Giáo. Mỗi lần làm dấu Thánh Giá, chúng ta đang tuyên xưng một Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần.
Bốn mươi ngày sau khi từ cõi chết sống lại, Chúa Giêsu đã lên trời trên núi Olives gần làng Bethany trước mặt 11 Tông Đồ (TĐCV 1:9-12; Luca 24:50-51). Tông Đồ Công Vụ đã diễn tả cảnh thầy trò chia tay như sau: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.
Trong những điều làm cho cha mẹ cảm thấy đau lòng và thất vọng, là tình trạng đứa con của mình bỏ nhà đi hoang. Một đứa trẻ ở nhà với cha mẹ mà đôi khi còn lười biếng, bê bối học hành, cãi trả cha mẹ, thiếu hòa khí với anh chị em, sống thiếu kỷ luật thì khi nó ra khỏi gia đình sẽ sống như thế nào?
Ngày 31 tháng Năm kết thúc tháng Hoa và cũng là ngày Giáo Hội mừng Lễ Mẹ Thăm Viếng. Theo Phúc Âm thánh Luca, sau khi Tổng Thần Gabriel truyền tin Mẹ mang thai Chúa Giêsu, đồng thời cũng biết chị họ mình là Isave đã có thai được sáu tháng, Đức Maria đã vội vã lên đường đến thăm viếng và chúc mừng người chị cao niên đang mang tiếng là son sẻ của mình. (Luca 1:39-56)
Viết về mẹ, tôi muốn nhìn mẹ bằng cái nhìn tuổi thơ, với những câu nói ngớ ngẩn, những nhận xét ngu ngơ nhưng dễ thương về mẹ. Những câu nói mà có lẽ mẹ cho đến tuổi già vẫn nhớ, vẫn lập lại như những kỷ niệm khó quên khi con còn thơ bé.
Khói trắng đã bốc lên từ ống khói Điện Sistine lúc 6:07 chiều và sau đó vào lúc 7:17 chiều theo giờ địa phương Rôma, Thứ Năm ngày 8 tháng Năm, Đức Hồng Y Dominique Mamberti trưởng đẳng phó tế xuất hiện tại balcony Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô thông báo với toàn thế giới:
Lịch sử Giáo Hội Việt Nam không nhắc đến một cách rõ ràng việc sùng kính Đức Mẹ trong tháng Năm đã được truyền vào Việt Nam từ bao giờ và trong những hoàn cảnh nào. Tuy nhiên, những ai đã qua tuổi thiếu niên ở một giáo xứ thì không thể quên được hình ảnh những buổi dâng hoa kính Đức Mẹ khi tháng Năm về, và thuộc lòng những bài hát như:
Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm của Đức Trinh Nữ Maria, “cha đồng trinh” hay dưỡng phụ của Chúa Giêsu Kitô là một vị thánh cao cả trong Giáo Hội. Thánh Kinh gọi Ngài là “người công chính” (Mátthêu 1:18). Ngoài những danh hiệu cao quý trên, Thánh Kinh còn dành cho Ngài một danh hiệu nói nghề nghiệp và sinh kế của Ngài: Bác thợ mộc.
Sau khi phục sinh từ cõi chết, Chúa Giêsu đã hiện ra với một số người trong một số hoàn cảnh. Ngài hiện ra với Maria Magdalene, Phêrô, và các Tông Đồ. Phaolô liệt kê những lần hiện ra mà ông biết: “Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ.
Chúa Nhật II Phục Sinh được Giáo Hội cử hành đại lễ kính Lòng Thương Xót Chúa. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ này nhân dịp phong thánh cho Nữ tu Maria Faustyna (thường được đánh vần là Faustina) Kowalska ngày 30 tháng Tư 2000. Vậy tại sao thế giới hôm nay cần đến Lòng Thương Xót Chúa? và Tại sao Giáo Hội lại phổ biến Lòng Thương Xót này?
Trong khi đón rước Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, dân chúng đã tung hô Ngài: “Chúc tụng đức vua, đấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời, và vinh quang trên các tầng trời.” (Luca 19:38) Nhưng liệu những người đón tiếp Chúa hôm đó, có thực sự nhận ra Ngài là vua của các vua, hay chỉ thuần túy đón tiếp một vị vua như Saulê hay Đavít.
“Dô! Dô! Dô!”
“Lâu lâu rồi ta mới nhậu một lần.
Nhậu một lần thì nhậu cho lâu lâu”.
Rồi cả bàn lại nâng ly hô to: “Dô! Dô! Dô!”
Đây là hình ảnh một bữa nhậu mà tôi đã học được trong lần về quê thăm gia đình vừa qua. Những bữa nhậu như vầy thường xuyên xảy ra trong văn hóa giao lưu đối tác tại Việt Nam.
Khi suy niệm về trích đoạn Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Philipphê đoạn 3 từ câu 8 đến 11, chúng ta có cảm thấy bị thu hút và bàng hoàng về xác tín mạnh mẽ của thánh nhân khi viết về Chúa Giêsu Kytô. Ngài viết: “…Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kytô Giêsu, Chúa của tôi.
Ba điều cần phải làm trong mùa chay là cầu nguyện, chay tịnh và thực hành bác ái. Đây là những việc sẽ dẫn chúng ta tiến tới mối tương quan gần gũi hơn với Thiên Chúa, đón nhận ánh sáng Phục Sinh. Nhưng để được gần gũi, thân mật với Ngài, con người phải biết thống hối và trở về với Ngài.
Thánh Martin sinh tại Savaria, địa phận Pannonia thuộc Hung Gia Lợi ngày nay vào năm 316 hoặc 336, qua đời ngày 8 tháng Mười Một 397 với tuổi thọ khoảng 60 đến 81. Khi còn là một sỹ quan trẻ, vào một buổi chiều mùa đông lạnh giá, ngài thấy một người ăn xin đang co ro, rét run bên đường.
Tết Nguyên Đán là lễ hội lớn nhất của người dân Việt Nam, mang ý nghĩa nhân văn, phong tục, tập quán, và truyền thống của một dân tộc. Vậy nguồn gốc, ý nghĩa, và phong tục ngày Tết như thế nào?
Năm hết tết đến, mọi người đều thấp thỏm muốn biết năm mới tương lai, hậu vận sẽ ra sao? Tình duyên, gia đạo, công ăn việc làm, xây cất, hùn hạp, công danh sự nghiệp sẽ như thế nào? Tương lai nhân loại năm 2025 sẽ đi về đây? Liệu thế chiến thứ ba có xảy ra?
Chồng tôi là một người đàn ông trăng hoa không cần biết hậu quả như thế nào. Chúng tôi đã sống với nhau 10 năm và có 2 con gái rất xinh xắn, dễ thương. Trong thời gian chung sống tính đến nay anh đã ngoại tình với 3 người phụ nữ: đàn bà có chồng, đàn bà lớn tuổi, và con gái mới lớn. Mỗi lần bị lộ chuyện là anh thề sống thề chết sẽ từ bỏ, sẽ quay về con đường ngay chính. Nhưng gần đây thì anh lại đang liên lạc với một người phụ nữ thứ tư. Người này không ai khác là cô em họ hàng xa với anh ta.
NGÀY SINH NHẬT của Chúa và Đấng Cứu Độ chúng ta, Chúa Giêsu Kitô, đã xuất hiện trên trái đất, và sự tiếp nối của ngày này kéo dài mãi đến thời đại của chúng ta, dẫn tới ngày kỷ niệm của nó, đã được chúng ta nhận biết hôm nay khi vui mừng về việc cử hành đặc biệt này.‘Chúng ta hãy hân hoan và vui mừng về ngày ấy,’
NGÀY SINH NHẬT của Chúa và Đấng Cứu Độ chúng ta, Chúa Giêsu Kitô, đã xuất hiện trên trái đất, và sự tiếp nối của ngày này kéo dài mãi đến thời đại của chúng ta, dẫn tới ngày kỷ niệm của nó, đã được chúng ta nhận biết hôm nay khi vui mừng về việc cử hành đặc biệt này.‘Chúng ta hãy hân hoan và vui mừng về ngày ấy,’
Lễ Giáng Sinh hay còn được gọi là Lễ Sinh Nhật, Christmas, Noël, Nativity, Kolena, Xmas… Một đại lễ mang tính cách quốc tế, được cử hành trong toàn Giáo Hội Công Giáo, và hầu như trên khắp thế giới. Đây là ngày vừa có tính cách tôn giáo, và cũng là một lễ hội,
Biến cố giáng sinh của Chúa Giêsu ở Belem (Bethlehem) được trình thuật trong Phúc Âm của Mátthêu và Luca: “Và bà hạ sinh một con trai. Bà quấn con trong khăn và đặt trong một máng cỏ, bởi vì không có phòng trọ cho họ.” (Luca 2:7). Theo truyền thống, Hài Nhi Giêsu được sinh ra trong một chuồng nuôi súc vật ngoài thành Belem thuộc miền đồi núi Giuđêa, khoảng 10 Km phía Nam thành Giêrusalem, Bờ Tây (the West Bank) của Palestine.
Nhập Thể và Thánh Thể là hai mầu nhiệm rất quan trọng đi đôi với nhau trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu sinh ra tại hang đá Belem, cũng là Chúa Giêsu được sinh ra trên bàn thờ trong các thánh lễ. Ngài là của ăn và là bánh hằng sống. Mùa Vọng với mục đích cuối cùng của nó là đem chúng ta đến gần và lãnh nhận Thánh Thể như một phương thế dọn lòng đón chờ ngày kỷ niệm Chúa giáng trần và ngày Ngài lại đến trong vinh quang.
Các thánh tử đạo Việt Nam là danh sách những tín hữu, chủng sinh, thầy giảng, linh mục Công Giáo Việt Nam hoặc thừa sai ngoại quốc được Giáo Hội Công Giáo Rôma tuyên thánh với lý do chết vì Đức Tin. Theo lịch sử Công Giáo Việt Nam, ước tính có đến hàng trăm ngàn người đã phải chết để làm chứng đức tin của mình. Trong số đó có 117 vị được tôn phong hiển thánh
Hôm nay tôi một mình đi trong nghĩa trang, tìm lại những kỷ niệm của những người đã đi trước: giám mục, đức ông, linh mục, tu sỹ, các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ, chú thím, bạn bè, và anh em. Đời người thật ngắn ngủi. Mới đó mà nay đã ra người thiên cổ. Mới đó mà nay đã không còn xuất hiện trên cõi đời này, không còn có dịp gặp gỡ, hàn huyên, tâm sự với nhau nữa.
Theo Chúa, hy sinh vì Chúa, và phục vụ Chúa kết quả để được gì? Đây không phải chỉ là câu hỏi mà mọi người chúng ta đôi lúc bị cám dỗ nghĩ tới. Các thánh nhân, ngay cả các Tông Đồ cũng bị cám dỗ này làm lung lay. Điển hình là Phêrô, sau một thời gian theo Chúa, ông đã chẳng thấy tương lai gì nên thẳng thắn hỏi Chúa: “Lạy Thầy chúng tôi đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, chúng tôi sẽ được gì?” (Mt 19:27).
Maria Magdalena (Maria Mađalêna hay còn được gọi là Maria Mai-đệ-Liên) là một trong các nữ môn đệ của Chúa Giêsu. Bà được Ngài chữa lành và trừ cho bảy quỷ (x. Luca 8:2; Marcô 16:9). Bà trung thành đi theo Chúa kể cả đứng dưới chân thập giá trong khi các Tông Đồ bỏ trốn hết, ngoại trừ một mình Gioan ở lại.
-Sầu Đông hôm qua đem sổ điểm về em la cho nó một mẻ. -Nó phạm lỗi gì mà em la nó? -Nó bị một con B. -Em không biết là thang điểm, B đứng hạng nhì không? A,B,C. Làm gì phải la nó, vả lại chỉ có một con B thôi mà. -Em muốn nó được A tất cả. Em muốn nó phải vào được trường giỏi, ra trường thủ khoa và có tương lai. Em một mình nuôi nó ăn học, em có quyền hy vọng điều đó. Câu chuyện giữa tôi và cô em trên chắc cũng là giấc mơ của nhiều phụ huynh.
-Sầu Đông hôm qua đem sổ điểm về em la cho nó một mẻ. -Nó phạm lỗi gì mà em la nó? -Nó bị một con B. -Em không biết là thang điểm, B đứng hạng nhì không? A,B,C. Làm gì phải la nó, vả lại chỉ có một con B thôi mà. -Em muốn nó được A tất cả. Em muốn nó phải vào được trường giỏi, ra trường thủ khoa và có tương lai. Em một mình nuôi nó ăn học, em có quyền hy vọng điều đó. Câu chuyện giữa tôi và cô em trên chắc cũng là giấc mơ của nhiều phụ huynh.
Mấy người bạn của tôi nay người này, mai người khác cứ lần lượt rủ nhau từ giã cõi đời. Những người còn lại thì hồi hộp, thấp thỏm: “Bao giờ đến phiên mình?” Vẫn biết rằng có sinh thì phải có tử, nhưng chuyện gì xảy ra trước và sau đó vẫn là điều mà nhiều người thường hay băn khoăn, lo lắng.
Trải qua bao thế kỷ, Giáo Hội Công Giáo đã dành tháng Năm để đặc biệt tôn kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Không phải chỉ là một ngày, mà toàn tháng Năm. Như mùa Đông qua, tháng Năm được coi như khởi đầu một sức sống mới của vạn vật. Truyền thống dành riêng tháng Năm tôn kính Đức Mẹ bắt nguồn từ việc người Rôma tôn kính nữ thần mùa xuân. Các Kitô hữu ban đầu đã tôn giáo hóa tập tục này, và tổ chức những cuộc rước kiệu hoa và cầu nguyện cho mùa màng phong phú.
Chúa Giêsu, qua trích đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan (15:1-8) đã diễn tả về mối tương quan giữa Ngài và các môn đệ qua hình ảnh quen thuộc mà mọi người Do Thái đều biết, đó là hình ảnh cây nho. Ngài là cây nho và chúng ta là cành.
Cây nho mọc khắp nơi tại Palestine. Dù trồng ở đâu, việc chuẩn bị đất trồng vẫn là việc chính yếu.
Câu truyện truyền tin của Đức Maria đã được Thánh sử Luca (1:26-38) ghi lại một cách chi tiết và đầy đủ. Trong biến cố này Đức Maria đã trở nên một gương mẫu đức tin cho chúng ta. Người cho chúng ta thấy rằng đức tin không chỉ là hành động chấp nhận, nhưng còn là sự tín thác, trung tín, vâng lời, và phục tùng nữa.
“Đừng sợ, Ta là nguyên thủy và cùng đích, và là Đấng hằng sống. Ta đã chết, và nay ta đang sống tới muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18).
Chúng ta nghe những lời yên ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ Sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Đức Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện an ủi của Ngài.
Thứ Sáu Tuần Thánh. Đồi Golgotha. Cây thập tự. Không gian, thời gian và vật dụng ấy nhắc tôi về cái chết đau thương, đầy nhục nhã của Đức Giêsu Cứu Thế. Ngài bị đóng đanh và chết trên thập giá. Nhưng cái chết của Người thực sự đem lại cho tôi điều gì? Tại sao tôi phải xót xa và thương cảm? Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma (6:3-11) đã trả lời tôi về những gì mà tôi đang suy tư, khi liên kết cái chết của Chúa Giêsu với cái chết của người Kitô hữu qua Bí Tích Thánh Tẩy:
Mỗi lần Chúa Nhật Lễ Lá mở đầu Tuần Thánh, Giáo Hội lại cho đọc những trình thuật về cuộc khải hoàn của Chúa Giêsu vào Thành Thánh Giêrusalem. Gọi là cuộc khải hoàn, nhưng đúng hơn, đây là hình ảnh của việc chiếm ngự tâm linh mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện khi ngài chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Một hình ảnh của cuộc chiến thắng tinh thần.
“Khi đến gần làng Bethphage, bên triền núi gọi là Ôliu. Người sai hai môn đệ và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Khi vào sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh tháo dây ra và dắt nó đi. Và nếu có ai hỏi: “Tại sao các anh tháo lừa người ta ra, thì cứ nói: “Chúa cần đến nó!”
Thánh Giuse là một vị thánh cao cả và vỹ đại nhất trong Giáo Hội Công Giáo. Hình ảnh của ngài luôn gắn liền với hình ảnh Đức Trinh Nữ Maria và Chúa Giêsu, Đấng cứu chuộc nhân loại. Tuy nhiên, sự cao cả và vỹ đại của Ngài không được những tài liệu, sách báo do con người ghi chép, nhưng tiềm ẩn trong Thánh Kinh Tân và Cựu Ước.
Chúa Giêsu sau khi chịu Phép Rửa trên sông Gordan, Ngài được Thánh Thần đưa vào sa mạc, ở đó 40 ngày ăn chay và chịu Satan cám dỗ. Để tìm hiểu những cám dỗ ấy của Ngài, cũng như chúng có ý nghĩa gì trong đời sống tâm linh của chúng ta, đặc biệt trong Mùa Chay Thánh này. Sau đây là bài viết của cha Thomas G. Weinandy, OFM, Cap., một nhà thần học, một nhà trước tác và cựu thành viên trong Ủy Ban Thần Học Thế Giới của Vatican,
Chúa Giêsu đã đem ba môn đệ là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao, ở đó Chúa biến hình trước mặt các ông (x. Marcô 9:2-10).
Thánh sử Marcô đã tả lại quang cảnh này bằng những từ ngữ rất gợi hình, truyền cảm: “Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.” (3) Có Maisen và Êlia cùng xuất hiện đàm đạo với Chúa. Điều này khiến các ông vui sướng, và phản ứng lúc đó của Phêrô là muốn ở lại luôn trên núi với Thầy:
Anh chị em thân mến!
Khi Thiên Chúa của chúng ta mặc khải Ngài chính Ngài, thông điệp của Ngài luôn luôn nói đến tự do: “Ta là Chúa, Thiên Chúa các ngươi, người đã đem các ngươi ra khỏi đất Ai Cập, khỏi nhà nô lệ” (Ex 20:2). Đây là những lời đầu tiên trong Mười Giới Luật mà Ngài đã ban cho Maisen trên núi Sinai.
Vợ chồng xưng hô với nhau bằng Chồng ơi – Vợ ơi, Bố ơi – Mẹ ơi, Anh ơi – Em ơi, hoặc Mình ơi thì đến già vẫn yêu thương mặn nồng, kẻ thứ 3 khó có chỗ chen chân vào. Những từ ngữ trên là cách gọi vừa thể hiện chủ quyền sở hữu, trách nhiệm, và tình cảm mà cả hai dành cho nhau.
Thống kê cho thấy, ngày nay rất nhiều phụ nữ chọn sống độc thân, không lấy chồng và sinh con. Lý do vì họ muốn được tự do theo đuổi những giấc mộng riêng tư, vì không muốn chịu ràng buộc với trách nhiệm làm vợ và làm mẹ. Nhưng tự thâm tâm và bản năng, người phụ nữ luôn muốn có một người chồng và được làm mẹ.
Qua hai câu Thánh Kinh ngắn gọn, Thánh Ký Marcô đã vẽ ra hai khuôn mặt trái ngược nhau về Chúa Giêsu: “Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí.” (3:20-21)
Ba nhà chiêm tinh hoặc đạo sỹ (magi). Các ngài là Caspar hay Caspas, Jaspas, Gathaspa. Melchior hay Melichior. Và Balthasar hay Balthazar, Balthassar hoặc Bithisarea. Các ngài đã lận lội đường xa đến thờ lạy Đức Kitô vừa giáng sinh. “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2:2).
“Ngài đã trở nên một trẻ thơ, để Ngôi Lời có thể được chúng ta nắm bắt. Bằng cách này, Thiên Chúa dạy chúng ta yêu thương những người bé mọn… Ngài dạy chúng ta yêu những ai yếu đuối.”
“Ngài đã trở nên một trẻ thơ, để Ngôi Lời có thể được chúng ta nắm bắt. Bằng cách này, Thiên Chúa dạy chúng ta yêu thương những người bé mọn… Ngài dạy chúng ta yêu những ai yếu đuối.” Trong bài giảng dưới đây, Đức Thánh Cha đã lưu tâm đến những trẻ em bị lạm dụng, xâm phạm, bao gồm những thai nhi bị giết hại,
Thấm thoát mà đã 2023 lần kỷ niệm ngày Giêsu giáng trần. Mỗi năm mỗi khác, và mỗi nơi cũng mỗi khác. Có những năm trời mưa, giông bão, tuyết rơi. Có những năm thanh bình, và cũng có những năm chiến tranh. Riêng tại quê hương Việt Nam tuy hết chiến tranh nhưng lại chưa có thanh bình!
Advent xuất phát từ tiếng Latin là adventus có nghĩa là đang đến, đang tới gần. Theo lịch phụng vụ, đây là thời gian mong chờ và chuẩn bị đón mừng Sinh Nhật của Đức Giêsu Kitô trong đêm Giáng Sinh, và ở một nghĩa khác, nhắc nhở chúng ta hướng tới ngày trở lại lần thứ hai của Ngài. Mùa Vọng kéo dài qua 4 tuần lễ với 4 Chúa Nhật Mùa Vọng.
Hôm 8 tháng 9 năm 2023 lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, trong lúc nguyện ngắm buổi sáng trước Thánh Lễ, tôi đã dùng cuốn sách Vinh Quang Mẹ Maria (The GLORIES of MARY) của Thánh Alphonsus De Liguori làm tư tưởng cho phần suy niệm. Và tôi đã cùng ngài suy niệm câu: “Đến sau cõi đời này, xin Mẹ cho chúng con được thấy Chúa Giêsu quả phúc của lòng Mẹ”
Theo truyền thống đã có từ những thế kỷ đầu, Giáo Hội Công Giáo tôn kính 7 Tổng Thần có tên là Michael, Gabriel, Raphael, Uriel, Camael, Jophiel, and Zadkiel. Ba vị đầu là Michael, Gabriel và Raphael
Sau khi đọc bài “KHI THA THỨ LÀ TỰ THA CHÍNH MÌNH”, một độc giả đã email phản ảnh ý kiến của mình. Ông viết: “Bài học này tôi đã học mãi mà chưa thuộc. Tha đã khó mà quên những điều người khác làm cho mình phải khổ, phải thiệt thòi, hoặc phải mất danh dự thì càng khó hơn”.
“Tha thứ là tự tha cho chính mình”. Tư tưởng này xem ra như không hợp với suy nghĩ và lối sống của nhiều người. Làm gì có chuyện tha cho kẻ cướp chồng mình, kẻ phản bội mình vì một người đàn bà khác, kẻ cướp của, giết hại cha mẹ, anh chị em mình, hoặc kẻ tham ô khiến mình phải mất đất, mất nhà, mất việc làm để rồi đến nỗi táng gia bại sản, thân bại danh liệt, gia đình đổ vỡ, con cái nheo nhóc, lâm cảnh tù tội…
Hôn nhân là một đời sống hạnh phúc. Nó chính là nền tảng của gia đình, của xã hội, và cả tôn giáo nữa. Bởi đó hôn nhân có rất nhiều kẻ thù. Thoạt nhìn vào những đổ vỡ của hôn nhân, người ta thường cho rằng kẻ thù của nó là những tệ nạn của xã hội: rượu chè, nghiện hút, cờ bạc, và lăng nhăng trai gái. Một số nguyên nhân khác bao gồm: vợ chồng ghen tương, lười biếng, thiếu trách nhiệm, nếp sống gia trưởng, và bạo hành trong gia đình.
Hôm nay (8 tháng 9 năm 2023) lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, trong lúc nguyện ngắm buổi sáng trước Thánh Lễ, tôi đã dùng cuốn sách The GLORIES of MARY (Vinh Quang Mẹ Maria) của Thánh Alphonsus De Liguori làm tư tưởng cho phần suy niệm. Trong phần tài liệu, tôi đã đọc bài viết của thánh nhân, và cùng ngài suy niệm câu: “Et Jesum benedictum fructum ventris tui nobis post hoc exilium obstande”
Chư huynh đáng kính trong hàng Giám Mục và Linh Mục
Anh chị em thân mến, Trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat), một thi ca tuyệt vời của Đức Mẹ mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng, chúng ta tìm thấy một số từ ngữ gây kinh ngạc. Maria nói: “Từ nay muôn thế hệ sẽ gọi tôi diễm phúc”.
Những hình ảnh cổ nhất diễn tả việc Chúa Giêsu biến hình có từ thế kỷ thứ Sáu được tìm thấy trong tu viện St. Catharine ở Siani, đã diễn tả những gì mà thánh ký Matthêu đã ghi lại trên núi. Theo truyền thống thì Chúa Giêsu đã biến hình trên núi Tabor. Đây là ngọn núi cao 575m ở cuối hướng đông của Thung Lũng Jezreel, cách Biển Galilee 18 Km.
Qua Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa được diễn tả như một Thiên Chúa đáng yêu, giầu lòng rộng rãi, nhân ái và bao dung. Ngài luôn mời gọi mỗi người chúng ta đến với Ngài. Lời “mời” của Ngài trường hợp này mang hai nghĩa: -Sự thu hút của lời mời. Trong Isaia chúng ta tìm thấy ý nghĩa của sự thu hút ấy qua những lời: Khát nước, đói, đồ bổ, món ăn mỹ vị, bánh, sữa và rượu…
Nếu có dịp đọc tác phẩm “The Surrendered Wife” (Người Vợ Về Nguồn) của Laura Doyle [1], thì cũng giống như phần lớn các độc giả, bạn sẽ bị thu hút vào một cuộc tranh chấp nội tâm: tán thành hoặc phản đối nội dung và triết lý được tác giả trình bày trong đó.
Trong khi cao trào về nam nữ bình quyền, về nữ quyền đang được đề cao mà có ai đó nói rằng đã đến lúc chị em phụ nữ cần dừng lại để xem xét lại những gì mình đã làm,
Trong thế giới tự do hiện nay, con người xem như muốn giành lấy quyền làm chủ đời mình. Họ muốn biết lành, biết dữ. Với trào lưu tư tưởng không ngừng phản ảnh đến suy nghĩ và hành động. Thêm vào đó, được tiếp tay bởi truyền thông, sự lạm dụng và khuynh loát của giới chính trị, các chủ thuyết tự do của xã hội, và sự suy sụp về luân lý, đạo đức, những phong trào đồng tính, hôn nhân đồng tính và chuyển giới ngày một trở nên thách đố hệ thống luân lý, luật pháp, trật tự xã hội, đạo đức xã hội và cả Thiên Chúa nữa.
Phải bắt đầu dạy đứa trẻ 20 năm trước khi nó chào đời”. Câu nói này được cho là của Napoleon, nhưng quan niệm về tâm lý giáo dục thì cho rằng đứa trẻ không chỉ “sẵn sàng để học”, mà nó đã thực sự học ngay vừa khi chào đời.
Thời gian gần đây thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được những cuộc gọi nhờ giúp đỡ hoặc hỏi ý kiến qua điện thoại. Phần lớn những thắc mắc đều quy về hai điểm chính: Hôn nhân và giáo dục con cái.
Tâm lý nhàm chán cho chúng ta lý do để “xét lại”. Theo tâm lý này, người ta có trăm ngàn lý do để đến với nhau, và cũng có trăm ngàn lý do để xa nhau. Một khi tình yêu đã ra nhạt nhẽo, hững hờ, người ta sẽ cảm thấy hối tiếc, thấy phàn nàn, và muốn “thay đổi”. Và hậu quả là đem đến những cám dỗ về ngoại tình, nhất là những lúc “cơm không lành, canh không ngọt”. Như Nguyễn Ánh 9, Hồ Dzếnh cũng có một cái nhìn bi quan về một tình yêu chung thủy, hay đúng hơn một sự mơ mộng về cái thuở còn yêu nhau, theo đuổi và tán tỉnh nhau:
“Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Câu nói này hầu như ai cũng đã nghe và đã biết về ý nghĩa của nó. Tuổi trẻ mà không chút phá phách, nghịch ngợm không phải là tuổi trẻ. Nhưng lưu manh, côn đồ, du đãng, và bắt nạt lẫn nhau thì đó là những hành động không thể chấp nhận. Hậu quả của nó còn để lại một hiện tượng xã hội tồi tệ sau này, đó là: “Cá lớn nuốt cá bé!”
Một trong những cái làm căng thẳng nhất đối với một đứa trẻ là sức ép từ bạn bè “peer pressure”. Ai cũng có kinh nghiệm này khi còn là một trẻ em cắp sách đến trường, đặc biệt ở tuổi vị thành niên, và cả sau này khi đã bước chân vào cuộc sống với những giao tiếp xã hội.
Thánh Giuse, Cha Nuôi Đức Kitô. Ngài đã sinh sống và nuôi vợ con với đôi tay và sức lao động của chính mình bằng nghề thợ mộc. Chúa Giêsu lớn lên cũng theo nghề của dưỡng phụ ngài, và đã trở thành một anh thợ mộc: “Đây không phải là ông thợ mộc sao? Không phải là con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không ở đây với chúng ta sao? Và họ xúc phạm đến Ngài” (Marcô 6:3).
Dù chỉ là một người thợ mộc bình dân, âm thầm, và nghèo nàn, nhưng theo huyết thống, Thánh Giuse thuộc hoàng tộc David. Ở vào thời ngài, dòng dõi David tuy không còn lừng lẫy như xưa, Thánh Giuse vẫn cho thấy ngài là người có tâm hồn cao thượng và thánh thiện. Thánh Kinh kể lại sau khi kết hôn với Maria, do nhận ra Maria có thai, nhưng vì “là người công chính và không muốn công khai tố cáo người bạn mình” (Matthêu 1:19), nên Thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ Maria một cách kín đáo. Hành động của ngài đã khiến Thiên Đàng phải can thiệp. Thiên thần Chúa đã được sai đến và cho ngài hay con trẻ đó là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa đây được hoài thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
“Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
“Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18). *
Chúng ta vừa nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Chúa Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện bảo đảm của Ngài. Đối với mỗi người, trong bất cứ điều kiện nào, dù cho là phức tạp và bi đát nhất, Đấng Phục Sinh đều lập lại: “Đừng sợ, Ta đã chết trên Thập Giá nhưng nay Ta sống đến muôn đời”, “Ta là đấng trước hết và sau hết, và là đấng hằng sống.”
Theo trình thuật của thánh sử Luca (Lc 24,13-35), hôm đó trên đường từ Giêrusalem về Emmaus có ba người lữ hành. Họ đi bên nhau, chia sẻ những suy tư của mình về một biến cố, theo họ, rất quan trọng và có ảnh hưởng đến không chỉ riêng họ mà còn cả toàn dân Israel nữa. Ba người gồm một người được ghi rõ tên, một người không ghi rõ tên, và một người sau cuối ngày danh tính mới được biết đến. Đây cũng là người, là nhân vật chính trong câu chuyện mà cả ba đã trao đổi suốt dọc đường.
Anh chị em thân mến,
Đây là thời khắc mà tôi đã từng mong đợi. Tôi đã đứng trước Khăn Liệm Thánh trong nhiều trường hợp khác nhau, nhưng lúc này, qua cuộc Hành Hương này và giây phút này tôi đang cảm nghiệm về nó bằng một cường độ đặc biệt: Có lẽ vì trong những năm vừa qua đã cho tôi cảm nhận nhiều hơn đối với thông điệp của Hình Ảnh phi thường này. Và trên tất cả, tôi có thể nói bởi vì giờ này, tôi ở đây như Đấng Kế Vị của Phêrô, và tôi mang trong tim tôi toàn thể Giáo Hội, đúng ra, toàn thể nhân loại.
Các nhà chú giải Thánh Kinh đã đếm được 365 lần câu “đừng sợ” (don’t be afraid) trong Kinh Thánh. Nếu một năm 365 ngày chia đều cho 365 lần nhắc nhở “đừng sợ”, thì ít nhất mỗi ngày một lần, Thánh Kinh nhắc bảo con người rằng “đừng sợ!” Vậy, con người sợ cái gì? Và tại sao Thiên Chúa lại phải trấn an con người như vậy? [1]
Thế gian này là một “vũng lệ sầu” như lời trong kinh Lạy Nữ Vương, vì thế cuộc lữ hành đi về vĩnh hằng của con người chính là một hành trình gặp phải rất nhiều sự sợ hãi. Trước hết, con người phải đối diện với những sợ hãi do ma quỷ là loài thần thiêng, nhưng luôn luôn ghen tỵ và tìm mọi cách để làm hại con người.
Tuần Thánh (Holy Week), tiếng Latin là Hebdomas Sancta hay Hebdomas Maior. Tuần lễ trọng đại này đối với người Kitô Giáo là tuần trước Phục Sinh. Theo Tây Phương, nó bắt đầu bằng tuần lễ sau cùng của Mùa Chay, bao gồm Chúa Nhật Lễ Lá, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bẩy tuần Thánh.
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”.
Vâng! Hỡi Giêsu. Xin hãy yên nghỉ và quên đi những vất vả sau ba năm truyền giảng Tin Mừng. Quên đi những roi đòn làm tan nát tấm thân. Quên đi mão gai. Quên đi những tiếng la ó đòi kết án. Quên đi bản án bất công. Quên đi thánh giá nặng trên vai. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con.” (Mt 27:46) Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Xin hãy ngủ yên.
Có khi nào chúng ta đã tự đặt mình vào số những người vây quanh Chúa Giêsu mỗi khi Ngài rao giảng không? Và thái độ của chúng ta lúc đó như thế nào: Hăm hở nghe lời Ngài, suy tôn và thần tượng Ngài về những lời giảng dạy khôn ngoan; hoặc ngược lại, cảm thấy chói tai, mỉa mai Ngài rồi bỏ đi?